Bệnh á sừng vảy nến là tình trạng da xuất hiện hình thái tổn thương tương tự bệnh vảy nến nhưng khác nhau về căn nguyên, đặc điểm, tính chất và cơ chế khởi phát. Dựa vào triệu chứng lâm sàng, bệnh được chia thành 3 thể chính (thể giọt, thể mảng và thể loang lổ).
Bệnh á sừng vảy nến là gì?
á sừng vảy nến (Parapsoriasis) là thuật ngữ y khoa đề cập đến các bệnh da liễu có tổn thương lâm sàng tương tự bệnh vảy nến nhưng khác nhau về cơ chế bệnh sinh, căn nguyên và đặc điểm. Bệnh lý này là một dạng tổn thương da mãn tính, dai dẳng và chưa có biện pháp điều trị đặc hiệu.
Hầu hết các trường hợp á sừng vảy nến đều lành tính và không gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe. Tuy nhiên ở một số ít trường hợp, tổn thương da có thể phát triển thành u sùi dạng nấm (bệnh da cận ác tính).
Dựa vào tổn thương lâm sàng, các nhà khoa học phân á sừng vảy nến thành 3 loại chính:
- á sừng vảy nến thể giọt
- á sừng vảy nến thể mảng
- á sừng vảy nến thể loang lổ
Đặc điểm nhận biết bệnh á sừng vảy nến
á sừng vảy nến có hình thái tổn thương tương tự bệnh vảy nến. Tuy nhiên đặc điểm lâm sàng có thể khác biệt ở từng thể bệnh và giai đoạn phát triển.
1. Đặc điểm á sừng vảy nến thể giọt
á sừng vảy nến thể giọt có thể khởi phát ở mọi lứa tuổi nhưng chủ yếu ảnh hưởng đến nam giới. Bệnh phát triển qua 2 giai đoạn chính – cấp tính và mãn tính với hình thái tổn thương có sự khác biệt rõ rệt.
– Triệu chứng của á sừng vảy nến thể giọt cấp tính:
- Ở giai đoạn cấp tính, bệnh gây tổn thương dạng đậu mùa
- Tổn thương da xuất hiện ở lòng bàn tay, bàn chân và đây
- Tổn thương cơ bản là tình trạng nổi mụn mủ, sẩn, hoại tử da hoặc xuất huyết, có vảy tiết hoại tử, đường kính khoảng 1cm và bờ khúc khuỷu
- Khi da lành thường để lại sẹo lõm và xung quanh có hiện tượng nhiễm sắc tố
- Đi kèm với một số triệu chứng toàn thân như sưng hạch, đau khớp, nhức đầu, sốt và mệt mỏi
- Giai đoạn này thường kéo dài từ 3 – 6 tháng hoặc hơn
– Triệu chứng của bệnh á sừng vảy nến thể giọt trong giai đoạn mãn tính:
- Thường xuất hiện tổn thương ở lòng bàn tay, bàn chân, da đầu và có tính chất đối xứng
- Thương tổn cơ bản là sẩn đỏ phân bố rải rác, riêng rẽ, đường kính dao động từ 2 – 5mm. Sau khoảng vài tuần, sẩn đỏ có xu hướng xẹp xuống và trở thành tổn thương sẫm màu, bề mặt được phủ vảy da, khi tróc thường bong toàn bộ mảng da (được gọi là kiểu mở nắp hộp)
- Ở giai đoạn này, bệnh phát triển và tái phát thành nhiều đợt
2. Đặc điểm của á sừng vảy nến thể mảng
á sừng vảy nến thể mảng phổ biến hơn so với các thể còn lại. Khác với á sừng vảy nến thể giọt, thể bệnh này chủ yếu gặp ở người từ 30 – 50 tuổi và nam giới có tỷ lệ mắc bệnh cao hơn. Rất hiếm có trường hợp phát bệnh ở trẻ nhỏ và người dưới 20 tuổi.
Dấu hiệu nhận biết bệnh á sừng vảy nến thể mảng:
- Bệnh thường khởi phát triệu chứng chậm
- Tổn thương cơ bản là sự xuất hiện của các mảng da có màu sắc không đồng nhất và phát triển qua nhiều năm
- Nếu xuất hiện ở sườn, tổn thương thường có hình ngón tay/ bầu dục, bờ không rõ, không ngứa và không có hiện tượng thâm nhiễm
- Tổn thương ở các chi thường xếp song song theo trục
- Thể bệnh này ít khi ảnh hưởng đến lòng bàn tay, lòng bàn chân và da đầu
- Kích thước đám da tổn thương dao động từ 2 – 3cm, có khi phát triển và lan tỏa rộng bằng bàn tay, diện tích và hình dạng thường không đồng nhất
Thể bệnh này tương đối lành tính nhưng thường tiến triển dai dẳng và khó điều trị dứt điểm. Một số mảng tổn thương có thể biến mất sau khoảng vài năm nhưng cũng có một số kéo dài vĩnh viễn. Bệnh thuyên giảm vào mùa hè do có tác động từ ánh nắng mặt trời.
3. Đặc điểm của á sừng vảy nến thể loang lổ
á sừng vảy nến thể loang lổ đặc trưng bởi tình trạng tổn thương loang lổ sau một thời gian phát bệnh. Bệnh thường gặp ở độ tuổi từ 20 – 60 và nam giới có tỷ lệ mắc bệnh cao hơn.
Các triệu chứng thường gặp của á sừng vảy nến loang lổ:
- Ban đầu da xuất hiện các mảng tổn thương nhỏ, có màu đỏ hoặc đỏ tím
- Sau đó tổn thương loang lổ và đi kèm với hiện tượng teo da, nhiễm sắc, giãn mao mạch, xuất hiện một ít vảy da và đôi khi có sẩn
á sừng vảy nến loang lổ tương đối lành tính nhưng thường kéo dài và phát triển suốt cuộc đời. Thể bệnh này có nguy cơ phát triển u sùi dạng nấm – một bệnh da cận ác tính.
Nguyên nhân gây bệnh á sừng vảy nến
Tương tự các bệnh da liễu mãn tính, căn nguyên gây ra bệnh á sừng vảy nến vẫn chưa được xác định. Tuy nhiên qua nghiên cứu dịch tễ, mô bệnh học và một số xét nghiệm cận lâm sàng khác, các nhà khoa học đưa ra một số giả thuyết như sau:
- Di truyền: Yếu tố di truyền có vai trò quan trọng đối với cơ chế khởi phát các bệnh da liễu mãn tính. Thống kê cho thấy, bệnh nhân bị á sừng vảy nến thường có tiền sử gia đình mắc bệnh lý này hoặc bệnh về da khác như vẩy nến, viêm da cơ địa, chàm khô,…
- Dị ứng: Qua một số nghiên cứu, các nhà khoa học nhận thấy có hiện tượng lắng đọng Ig (kháng nguyên) ở mao mạch trung bì. Do đó nhiều chuyên gia nghi ngờ bệnh lý này có liên quan đến phản ứng dị ứng.
- Các yếu tố thúc đẩy khác: Ngoài ra, bệnh cũng có thể chịu ảnh hưởng của một số yếu tố thuận lợi như nhiễm khuẩn, rối loạn miễn dịch, căng thẳng quá mức, sinh sống trong môi trường ô nhiễm,…
Hiện tại căn nguyên của bệnh chưa được làm rõ nên việc điều trị còn gặp nhiều bất lợi. Mục đích chính của các biện pháp điều trị là làm giảm triệu chứng lâm sàng, ngăn ngừa hình thành tổn thương mới và hạn chế bệnh chuyển biến ác tính.
Bệnh á sừng vảy nến có chữa được không? Nguy hiểm không?
á sừng vảy nến là bệnh ngoài da tương đối lành tính và ít gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe tổng thể. Tuy nhiên bệnh có tiến triển mãn tính, tái phát nhiều lần, hầu hết đều phát triển suốt đời và chưa thể chữa trị dứt điểm.
Khác với chàm eczema và một số bệnh da liễu mãn tính khác, á sừng vảy nến không gây ngứa nên hiếm khi phát sinh tổn thương thứ phát hay bội nhiễm da.
Ở một số ít trường hợp bị á sừng vảy nến loang lổ và thể mảng, bệnh có thể tiến triển thành u sùi dạng nấm – một bệnh da cận ác tính. U sùi dạng nấm xảy ra do nhiễm vi nấm Rhinosporidium seeberi qua nước và bụi bẩn. Loại nấm này tấn công vào niêm mạc, gây ra khối u dạng polyp và làm phát sinh tổn thương tương tự sùi mào gà.
Chẩn đoán bệnh á sừng vảy nến bằng cách nào?
Trước tiên, bác sĩ sẽ quan sát tổn thương lâm sàng, xem xét tiền sử bệnh lý và tiền sử gia đình. Vì không có kỹ thuật chẩn đoán đặc hiệu nên phần lớn các trường hợp bị á sừng vảy nến đều được chẩn đoán phân biệt với các bệnh lý có triệu chứng tương tự.
Với bệnh á sừng vảy nến thể giọt, cần tiến hành chẩn đoán phân biệt với:
- Giang mai II: Bệnh giang mai ở giai đoạn II (săng giang mai) thường xuất hiện tổn thương dạng loét nông, có hình tròn hoặc hình bầu dục, không gây đau và ngứa. Ngoài ra tổn thương còn đi kèm triệu chứng nổi hạch nhưng không gây đau.
- Vảy nến thể giọt: Vảy nến thể giọt có biểu hiện lâm sàng tương tự bệnh á sừng vảy nến thể giọt trong giai đoạn mãn tính. Để phân biệt 2 bệnh lý này, bác sĩ sẽ thực hiện phương pháp cạo vảy Brocq.
Riêng với á sừng vảy nến loang lổ, cần phân biệt với:
- Vảy phấn hồng Gibert: Là một dạng viêm da cấp tính, có khả năng lây nhiễm và liên quan ít nhiều đến hoạt động tự miễn. Tổn thương điển hình là các đám hình oval hoặc hình tròn, màu đỏ nhạt, giới hạn rõ, đường kính từ 2 – 5cm hoặc rộng hơn. Hình thái tổn thương tương tự á sừng vảy nến loang lổ nhưng hay đi kèm với các triệu chứng toàn như mệt mỏi, sốt rét nhẹ, ngứa, sưng hạch lympho ở nách.
- Á sừng do vi khuẩn: Á sừng là một dạng tổn thương da thường gặp, điển hình bởi tình trạng da khô, nứt nẻ, thô ráp và ngứa ngáy. Chẩn đoán phân biệt bệnh lý này với á sừng vảy nến loang lổ chủ yếu là xét nghiệm máu hoặc sinh thiết mô da để phát hiện sự hiện diện của vi khuẩn.
Đối với á sừng vảy nến thể mảng, cần tiến hành phân biệt với vảy nến thể mảng. Tương tự vảy nến thể giọt, bác sĩ sẽ tiến hành cạo vảy Brocq để phân biệt 2 bệnh lý này.
Các biện pháp điều trị bệnh á sừng vảy nến
Điều trị bệnh á sừng vảy nến được thực hiện nhằm kiểm soát tổn thương da, cải thiện mức độ ảnh hưởng và ngăn ngừa tiến triển của bệnh. Các biện pháp điều trị cụ thể phụ thuộc vào thể bệnh, khả năng đáp ứng và độ tuổi của từng trường hợp.
1. Điều trị á sừng vảy nến thể giọt
á sừng vảy nến thể giọt có phạm vi ảnh hưởng nhỏ và đáp ứng khá tốt với các biện pháp điều trị. Các biện pháp thường được áp dụng trong điều trị thể bệnh này, bao gồm:
- Thuốc mỡ corticoid: Thuốc mỡ corticoid thường được sử dụng ở giai đoạn mãn tính. Thuốc có tác dụng giảm viêm, ngứa ngáy, kháng dị ứng và hạn chế hình thành tổn thương mới. Tuy nhiên corticoid có thể gây ra nhiều tác dụng phụ nên cần tuân thủ hàm lượng, tần suất và thời gian được bác sĩ chỉ định.
- Trị liệu PUVA: Phương pháp này sử dụng tia UVA với bước sóng thích hợp nhằm biệt hóa tế bào thượng bì, bình thường quá trình chuyển hóa da, ức chế tế bào gây viêm và cải thiện thương tổn do bệnh ả vảy nến gây ra. Trị liệu PUVA có hiệu quả rõ rệt trong việc cải thiện thương tổn lâm sàng nhưng có chi phí khá cao và có thể làm tăng nguy cơ ung thư da.
- Thuốc corticoid liều trung bình: Đối với những trường hợp tổn thương da xuất hiện trên phạm vi rộng, lan tỏa và tiến triển nhanh, bác sĩ có thể chỉ định thuốc corticoid dạng uống ở liều trung bình. So với dạng bôi, corticoid đường uống có thể gây ra nhiều biến chứng nghiêm trọng nên chỉ được sử dụng khi có yêu cầu từ bác sĩ chuyên khoa.
- Kháng sinh: Kháng sinh được sử dụng khi á sừng vảy nến thể giọt khởi phát do nhiễm trùng. Thông thường, kháng sinh nhóm cyclin được sử dụng để ức chế vi khuẩn, cải thiện nhiễm trùng và làm giảm tổn thương da. Tuy nhiên nếu nhóm thuốc này không đem lại hiệu quả, bác sĩ có thể chỉ định Disulfone với liều 100 – 200mg/ ngày trong 2 – 3 tuần.
- Vitamin C: Viên uống chứa vitamin C liều cao có thể được sử dụng nhằm nâng cao sức đề kháng và hỗ trợ kiểm soát tổn thương da do á sừng vảy nến. Bác sĩ thường yêu cầu dùng vitamin C kết hợp với tắm nắng để tăng tác dụng điều trị.
2. Điều trị á sừng vảy nến thể mảng và thể loang lổ
Đối với thể mảng và thể loang lổ, điều trị có thể bao gồm các biện pháp sau:
- Retinoid: Retinoid là dẫn xuất của vitamin A có tác dụng điều biến miễn dịch, bình thường hóa quá trình chuyển hóa da và cải thiện tổn thương do các bệnh da liễu gây ra. Loại thuốc này thường được dùng với liều 0.8 – 1mg/ kg/ ngày trong 3 – 4 tuần hoặc có thể chia thành nhiều đợt nhỏ tùy vào tiến triển của bệnh.
- Chế phẩm chứa Caryolysine (Chlormethine, Mechlorethamine): Loại thuốc này phải được pha với nước theo tỷ lệ 1:5 trước khi sử dụng. Sau khi pha, phải dùng gạc thấm nước và lau nhẹ lên vùng da thương tổn. Thuốc được sử dụng 2 – 3 ngày/ lần.
- Liệu pháp PUVA: Bên cạnh việc sử dụng thuốc, có thể dùng liệu pháp PUVA để điều trị á sừng vảy nến thể mảng và thể loang lổ.
- Kem bôi mềm da: Ngoài ra, có thể dùng các loại kem bôi có tác dụng làm mềm để cải thiện mức độ tổn thương, giảm tình trạng khô ráp và tăng cường hàng rào bảo vệ da.
- Liệu pháp laser: Đối với á sừng vảy nến thể mảng lớn, có thể điều trị bằng liệu pháp laser Excimer với bước sóng 308nm. Ngoài tác dụng chữa bệnh lý này, liệu pháp laser còn được áp dụng trong điều trị bệnh vảy nến và bạch biến.
Theo dõi và chăm sóc bệnh á sừng vảy nến
Phần lớn các trường hợp bị á sừng vảy nến đều lành tính, tồn tại trong thời gian dài nhưng không có thay đổi về mô bệnh học và hình thái lâm sàng. Tuy nhiên sau khi điều trị, cần theo dõi và chăm sóc đúng cách để hạn chế tần suất tái phát và kịp thời điều trị khi xuất hiện biến chứng.
Biện pháp chăm sóc và theo dõi bệnh á sừng vảy nến, bao gồm:
- Đối với á sừng vảy nến thể giọt, cần thăm khám 3 – 6 tháng/ lần và sau đó thăm khám mỗi năm/ lần. Riêng với thể mảng và thể loang lỗ, cần thăm khám 3 tháng/ lần, sau đó thăm khám 6 – 12 tháng/ lần để kiểm tra tình trạng bệnh và sinh thiết nếu nghi ngờ hình thành u sùi dạng nấm.
- Bệnh có liên quan đến yếu tố nhiễm khuẩn – đặc biệt là các bệnh viêm nhiễm đường hô hấp. Do đó nên chủ động phòng ngừa và điều trị triệt để các bệnh lý như viêm họng mãn tính, viêm amidan, viêm thanh quản,…
- Xây dựng chế độ ăn uống khoa học, sinh hoạt điều độ và luyện tập đều đặn nhằm nâng cao thể trạng và chức năng miễn dịch. Sức đề kháng được cải thiện có thể làm giảm nguy cơ bùng phát các bệnh da liễu mãn tính.
- Nên tắm nắng thường xuyên trong khung giờ 6:00 – 9:00. Ánh nắng mặt trời có thể điều biến hoạt động miễn dịch và hỗ trợ làm giảm tổn thương da.
Bệnh á sừng vảy nến gây ảnh hưởng không nhỏ đến ngoại hình và chức năng thẩm mỹ. Tuy nhiên hầu hết các trường hợp mắc bệnh đều lành tính và thuyên giảm sau khi điều trị. Tuy nhiến nếu không xử lý đúng cách, tổn thương có thể tiến triển thành bệnh da cận ác tính.
Xem thêm: Lao đường tiết niệu sinh dục