Cam thảo bắc tác dụng bổ tỳ vị nhuận phế
Còn có tên là bắc cam thảo, cam thảo, sinh cam thảo, quốc lão.
Tên khoa học Clycyrrhiza Aralensis Fish và Glycyrrhiza glabra L. (G. glandulifera Waldst et Kit).
Thuộc họ Cánh bướm Fabaceae (Papilionaceae).
Cam thảo (Radix Glycyrrhizae) là rẻ và thân. rễ phơi hay sấy khô của cây cam thảo nguồn gốc vùng Uran (Glycyrrhiza uralensis Fish.) hay cây cam thảo châu u Glycyrrhiza glabra L.
Tên cam thảo vì cam là ngọt, thảo là có, có có vị ngọt.
Glycyrrhiza vì do chữ Hy lạp glykos là ngọt và na là rẻ, rẻ có vị ngọt, uralensis và sản xuất
vùng núi Uran, dãy núi nằm giữa châu Á, châu Âu.
Mô tả cây cam thảo bắc
Cây cam thảo Glycyrrhiza uralensis) là một cây sống lâu năm thân có thể cao tới 1m hay 1,5m. Toàn thân cây có lông rất nhỏ. Lá kép lông chim lẻ, lá chét 9 – 17, hình trứng, đầu nhọn, mép nguyên, dài 2 – 5,5cm, rộng 1,5 – 3cm. Vào mùa hạ và mùa thu nở hoa màu tím nhạt, hình cánh bướm dài 14 – 22mm (cây trồng ở Việt nam sau 3 năm chưa thấy ra hoa). Quả giáp cong hình lưỡi hiểm dài 3 – 4cm, rộng 6 – 8cm, màu nâu đen, mặt quả có nhiều lông.
Trong quá có 2 – 8 hạt nhỏ dẹt, đường kính 1,5 – 2mm màu xám nâu, hoặc xanh đen nhạt, mặt bóng. Tại Trung Quốc mùa hoa tháng 6, 7, mùa quả tháng 7 – 9.Cây cam thảo Glycyrrhiza glabra rất giống loài cam thảo G. Uralensis, nhưng khác ở chỗ lá chét thuôn dài hơn, dài 1,5 – 4cm, rộng 0,8 – 2,3mm, quả giáp thẳng hoặc hơi cong, dài 2 – 3cm, rộng 4mm, mặt quả gần như bóng hoặc có lông ngắn, số hạt ít hơn loài trên. Mùa hoa tháng 6 – 8, mùa quả tháng 7 – 9.
Phân bố, thu hái và chế biến cây cam thảo bắc
Cây cam thảo bắc trước đây không có ở nước ta. Từ năm 1958, chúng tôi đã trồng thử một số bằng những hạt giống của loài Glycyrrhiza uralensis do Liên Xô cũ cung cấp. Cây mọc khỏe vào xuân hạ và thu. Đến mùa đông thì lại đi hoặc kém phát triển. Sang năm sau cay lại mọc tốt. Lượng hoạt chất trong rẻ mỗi năm môi tăng. Tuy nhiên sau 3 năm cây vẫn chưa ra hoa. Có tài liệu nói cây trồng thường không có hoa. Trồng bằng hạt hoặc bằng thân rễ. Sau 4 – 5 năm trở lên có thể thu hoạch. Đào rễ và thân rễ vào mùa xuân hoặc thu đông. Nhưng mùa thu đồng cam thảo tốt hơn. Mỗi hecta có thể thu hoạch 8 – 10 tấn.
Vì là một cây lâu năm mới thu hoạch cho nên trong 2 – 3 năm đầu người ta trồng xen các cây thực phẩm. Khi đào thường người ta chỉ lấy rễ, nhưng nhiều khi lấy cả thân rễ. Thân rễ rất dài, có khi tới 7 – 8m, Sau khi đào rễ, người ta xếp thành đống để cho hơi lên men, làm cho rẽ có màu vàng sẫm hơn, là màu người ta chuộng hơn.
Tại Liên Xô cũ, Trung Quốc và nhiều nước khác cây cam thảo mọc hoang và trở thành một thứ có khó diệt trừ, chỉ một mẫu thân rễ có thể trở thành một bụi cam thảo và cứ như vậy lan ra rộng rãi. Những khu vực cam thảo mọc hoang là những nơi có đất kho, đất có canxi, đất cát. đất cát vàng. Những nơi có đất đen cứng chắc, kiềm tính và ẩm thấp thì chất lượng cam thảo kém hơn nhiều xơ, ít bột, ít ngọt, rễ mọc cong queo.
Thành phần hóa học cây cam thảo bắc
Trong cam thảo người ta đã phân tích thấy 3 – 8% glucoza, 2,4 – 6,5% sacaroza, 25 – 30% tinh bột, 0,3 – 0,35% tinh dầu, 2 – 4% asparagin, 1130mg% vitamin C, các chất anbuyminoit, gôm, nhựa v.v…
Nhưng hoạt chất chính trong cam thảo là chất glyxyridin (glycyrrhizin) với tỷ lệ 6 – 14%, có khi tới 23%. Glyxyridin là muối canxi và kali của axit glyxyrizic. Công thức thô của axit glyxyrizic là CH,,0,. Axit glyxyrizic là một saponin tritecpenic, có độ chảy 205C gop =+58,5° hơi tan trong cốn và nước nóng, không tan trong etc. Thủy phân sẽ cho một phân tử axit glyxyretic còn gọi là glyxyxitin và 2 phân tử axit glycuronic.
Chất glycyrrhizin được nhà bác học Đức Dobreyner nghiên cứu và chiết suất từ năm 1819. Nhưng mãi đến năm 1843 người ta mới bắt đầu nghiên cứu cấu tạo hóa học của nó và gần đây mới xác định được chính xác.
Axit glyxyxetic không có vị ngọt, nhưng glyxyrizin và nhất là glyxyrizin phối hợp với amoniac hay thổ kiểm lại càng ngọt hơn. Pha loãng 1/20.000 vẫn còn vị ngọt.
Mới đây các nhà nghiên cứu Nhật Bản, còn chiết suất được từ cam thảo một sắc tố màu vàng dẫn xuất flavon gọi là liquiritin C,H,O. Nghiên cứu loại cam thảo 6. Aralensis trồng vườn Trường đại học dược Hà Nội, chúng tôi thấy sau một năm rẻ cam thảo có tỷ lệ 1% glyxyrizin và sau 2 năm tỷ lệ lên 2%. Chúng tôi còn đang tiếp tục theo dõi.
Tác dụng dược lý cây cam thảo bắc
Trước đây tây y chỉ coi cam thảo như một vị thuốc phụ có tác dụng hỗ trợ, làm cho đơn thuốc dễ uống, trái lại đông y coi vị cam thảo có khả năng hỗ trợ chữa rất nhiều bệnh và dùng trong hầu hết các đơn thuốc.
Trong nhiều công trình nghiên cứu, vai trò cam thảo rất được chú ý đến, nhiều kết quả nghiên cứu trong phòng thí nghiệm và trên lâm sàng đã chứng minh kinh nghiệm cổ truyền của nhân dân.
Tác dụng giải độc của cam thảo:
- Hậu Đằng Chinh, Trung Đảo Sinh Nam và Đại Một Nhất Hùng (1950) dùng muối natri của axit glyxyrizic thí nghiệm trên tim cô lập của ếch theo phương pháp Clark thấy natri glyxyrizat có tác dụng chống lại với tác dụng của cloral hydrat, physistigmin, axetyl-cholin, pilocacspin và yohimbin.
Đối với histamin và cocain cũng có tác dụng chống lại.
Natri glyxyrizai có tác dụng làm mạnh tim như chất adrenalin.
- Tam Hảo Anh Phu báo cáo trong Nhật tân y học 39 (7): 358, 1952 như sau: Muối kali và canxi của axit glyxyrizic có tác dụng giải độc rất mạnh đối với độc tố của bạch cầu, chất độc của cá lợn, cửa rắn, hiện tượng choáng.
- Cửu Bảo Mộc Hiến và Tình Kỳ Hòa Tử (Nhật Bản, 1954) đã báo cáo rằng chất glyxirizin có khả năng giải độc do stricnin: Các tác giả đã tiệm stricnin nitrat cho chuột nhắt cân nặng 15g cho đến hiện tượng trúng độc, đồng thời đối với một lô chuột khác thì tiêm kali nitrat và glyxyrizin, kết quả với liều 0,10mg sricnin nitrat, toàn bộ chuột chết trong vòng 10 phút còn lo chuột có tiêm cả glyxyrizin với liều 12,5mg thì chỉ có 58% chuột chết, nếu dùng nửa số liệu gây chết (D. L. 50) của stricnin nitrat là 0,02mg/10g thì tỷ lệ tử vong của chuột là 58,3% trong khi đó là có tiêm stricnin nitrat đồng thời tiên cả glyxyrizin thì không một con chuột nào bị chết cả.
Các tác giả còn cho biết khả năng giải độc của cam thảo có liên quan tới sự thủy phân glyxyrizin ra axit glycuronic.
- Năm 1953, Otto Gessner còn cho biết cam thảo có khả năng giải chất độc của độc tố uốn ván
- Năm 1956, Từ Tá Hạ, Diệm Ứng Cử và Bì Tây Bình đã báo cáo trong Trung Hoa y học tập chỉ (8: 755 – 766) rằng: Cam thảo có tác dụng giải độc đối với độc tố uốn ván.
- Cũng trong năm 1956, Diệm Ủng Cử và Trương Tín Chi đã thí nghiệm cho thỏ và chuột nhất uống dung dịch cam thảo 25 – 50% cũng với mocphin clohydrat, cocain clohydrat, stricnin nitrat, atropin sunfat, chloralhydrat, để xem khả năng giải độc thì thấy uống 4ml dung dịch cam thảo 25%/1 kg thể trọng có thể giải độc của cocain clohydrat (5mg/kg tiêm dưới da) và cloral hydrat (0,2g/kg thụt).
- Tác dụng như coctison:
- a) Theo J. A. Molhuysen (1950) cam thảo có tác dụng gần như coctison tăng sự tích nước và muối NaC trong cơ thể gây ra thủy thũng đồng thời các vết loét trong bộ máy tiêu hóa.
- b) Năm 1946, Reaver đã dựa vào đơn một biệt dược chữa đau dạ dày lưu hành tại một tỉnh nhỏ tên là Netherland gồm có cam thảo, quả tiểu hổi và muối sắt ferợ, đã chỉ dùng cam thảo hỗ trợ điều trị các bệnh loét đường tiêu hóa, kết quả sau vài ngày uống thuốc, các triệu chứng trường diễn của loét đếu mất hết và sau 3 tuân lệ, kiếm tra bằng X quang thấy vết loét hoàn toàn bình phục, nhưng 1/5 những người được điều trị bằng cao cam thảo có hiện tượng thủy thũng, lúc đầu xuất hiện ở mặt, sau toàn thân, một vài bệnh nhân thấy hơi nhức đầu, lao động chân tay thì thấy thở khó khăn và bị đau ở phía trên bụng.
- c) Năm 1953, Card căn cứ vào một số thí nghiệm trên chuột bạch, lại kết luận rằng tác dụng của cam thảo không giống tác dụng của desoxycocticosteron.
- Tác dụng đối với vị toàn (nước chua của dạ dày):
Năm 1951, Chu Nhan và Chu Kim Hoàng (Trung Quốc) đã dựa vào kết quả thực tế cam thảo hỗ trợ chữa bệnh đau dạ dày thí nghiệm xem ảnh hưởng đối với vị toàn. Kết quả thấy khi thụt 50 – 60ml dung dịch cam thảo 1% vào dạ dày của chó đã gây mê thì có thể hạn chế sự tăng bài tiết vị toàn do tiêm dưới da 0,5 – 1 mg chất histamin. Nhưng nếu cho chó có dạ dày nhỏ theo phương pháp Pavlov uống liên tục từ 14 – 24 ngày với liều 0,2-1g/kg thể trọng, sau khi đã tiêm dưới da 0,2-0,4 histamin để gây tăng vị toan thì kết quả không rõ rệt. Tác dụng giảm vị toan do tác dụng trực tiếp chứ không phải do phản xạ.
- Tác dụng tiêu giật (spasmolytique) đối với cơ trơn ống tiêu hóa:
Năm 1956, H. Berger và H. Holler đã thí nghiệm so sánh tác dụng của nước cam thảo với papaverin clohydrat thì thấy kết quả là 1/450 và 1/3.100.
- Tác dụng của nội tiết tố dục tỉnh:
Năm 1950, Christopher H. Costello (J. Amer. Pharmaceut, Ass.) đã báo cáo rằng trong cam thảo có chất tác dụng như nội tiết tố dục tính đối với âm đạo với âm đạo chuột bạch.
- Tác dụng khác
Một số tác giả khác còn cho rằng cam thảo có tác dụng lợi tiểu, tiêu viêm, hỗ trợ chữa táo bón.
Công dụng và liều dùng cây cam thảo bắc
Cam thảo là một vị thuốc rất thông dụng trong đông y và tây y. Ngoài ra nó còn được dùng trong kỹ nghệ thuốc lá, nước giải khát và chế thuốc chữa hỗ trợ cháy.
Theo tài liệu có, cam thảo có vị ngọt, tính bình (sau khi nướng thì tính hơi ôn), vào 12 đường kinh. Có tác dụng bổ tỳ vị, nhuận phế, thanh nhiệt giải độc, điều hòa các vị thuốc. Muốn thanh hóa thì dùng sống, muốn ôn trung thì nướng. Nướng lên chữa tỳ hư mà ta lỏng, vị hư mà khát nước, phế hư mà họ. Dùng sống hỗ trợ chữa đau họng, ung thư.
Ai cũng biết đường saccaroza, chất ngọt được tiêu thụ nhiều nhất trong khẩu phần dinh dưỡng. Công nghiệp thực phẩm, Công nghiệp nước ngọt nhưng ai cũng biết là ăn nhiều đường dễ mập. dễ hư răng, nguy hiểm đối với người mắc bệnh tiểu đường. Cho nên một hướng tìm tòi là thay vì ăn đường saccaroza, tìm một chất ngọt khác mà cơ thể không thể biến đường được.
Trên hướng đó người ta đã dùng đường hóa học, saccarin, ngọt gấp 300 – 400 lần saccaroza, glycyrrhizin của cam thảo ngọt gấp 10 lần đường, steviosit lấy từ trái cây Stevia rebaudiana ngọt gấp 300 lần, nhưng phần lớn các chất ngọt kẻ trên đều ít nhiều để lại một hậu vị đắng khó chịu, nhất là một số chất ngọt kể trên lại bị nghi ngờ gây ra ung thư. Gần đây nhất, thế giới đang lưu tâm nghiên cứu một chất dầu không màu, có vị ngọt chiết từ lá và hoa một loại có nguồn gốc ở Mehicố, có tên khoa học là Lippia dulcis
Trev, thuộc họ Cỏ roi ngựa (Verbenaceae) gọi theo tiếng địa phương ở Mehico là Tzonpelic Xihuiti có nghĩa là cỏ ngọt. Cây này đang được một số cơ quan nghiên cứu ở nước ta (ở cả hai miến) đang nghiên cứu trồng thử và chiết suất. Chất ngọt lấy ra được đặt tên là hernandulcin để nhớ đến công ơn của Francisco Hernandez, một y sĩ Tây Ban Nha, người đầu tiên mô tả cây cỏ ngọt này giữa năm 1570 – 1576.
Cấu tạo hóa học của chất này đã được xác định, kiểm tra bằng tổng hợp hóa học, khác với các chất ngọt được biết từ trước tới nay. Hemandulcin thuộc nhóm sesquitecpen, có tính ổn định và dễ tổng hợp, giá thành không cao lắm. Với cùng một số lượng phân tử như nhau, hernandulcin ngọt hơn đường saccaroza khoảng 1.000 lần. Đây là một chất ngọt tốt, qua nhiều trắc nghiệm sinh học, đã chứng tỏ có vẻ không sinh ra ung thư.
Cho vào bao tử chuột với liều 2g/1kg thể trọng, hernandulcin không gây hậu quả gì tai hại. Tuy nhiên hernandulcin vẫn chưa đáp ứng hoàn toàn yêu cầu và hương vị của hernandulcin không gây thích thú bằng đường saccaroza và hậu vị vẫn hơi đắng. Người ta đang tìm cách tổng hợp các đản suất của hernandulcin có thể không còn hậu vị khó chịu mà vị ngọt vẫn có hương vị dễ chịu của đường saccaroza.
Trong y học, ngoài công dụng làm cho thuốc ngọt dễ uống, làm tá dược chế thuốc viên, thuốc họ, thuốc giải độc, hiện nay cam thảo có hai công dụng chủ yếu: | 1. Chữa loét dạ dày và ruột. Ngày uống 34g, chia làm 3 lần uống trong ngày. Uống luôn | 7-14 ngày. Sau đó nghi vài ngày để tránh hiện tượng phù nề, nặng mặt.
- Hỗ trợ Chữa bệnh Adidon (Addison’s) vì trong cam thảo có axit glycyretic cấu tạo như coctison, nên có tác dụng tới sự chuyển hóa các chất điện giải cơ thể giữ lại natri và clorua trong cơ thể giúp sự bài tiết kali và có thể dùng hỗ trợ điều trị bệnh Addidon. Năm 1956 ba tác giả Trung Quốc có báo cáo trong Trung Hoa y học tạp chí đã dùng cao lỏng cam thảo với liều 15ml một ngày, có thể tăng tới 45 – 60ml để điều trị 4 trường hợp bệnh nhân bị bệnh Adidợn thì thấy thế lực tăng cường, natri trong huyết thanh tăng lên, huyết áp tăng lên, dùng phối hợp với coctison thì có thể giảm được lượng coetison.
Cũng trong năm 1956, tại Số báo Trung Hoa y học tạp chí số tháng 7, bốn tác giả khác báo cáo dùng cam thảo hỗ trợ điều trị 2 trường hợp bệnh Adidời với liều 20 – 30ml mỗi ngày (uống) kết quả rất tốt, nhưng một người phát sinh hiện tượng phù nề nhẹ, vài ngày sau tự nhiên tiêu đi, cùng Số báo đó một tác giả khác giới thiệu đã hỗ trợ điều trị khỏi một trường hợp Adidơn với liều 20 – 40ml cao lỏng một này. Số tháng 8 cùng báo đó, ba tác giả khác lại giới thiệu chữa khỏi một trường hợp Adidơn với liều 9 – 18ml cao lỏng cam thảo mỗi ngày, uống luôn trong 15 ngày.
Đơn thuốc có cam thảo
- Cát cánh cam thảo: hỗ trợ Chữa họ (xem vị cát cánh).
2, Đơn thuốc Kavét hỗ trợ chữa đau dạ dày: Cao cam thảo 0,03g, bột cam thảo 0,10g, natri bicacbonat 0,15g, magie cacbonat 0,20g. bitmutnitrat basic 0,05g, bột đại hoàng 0,02g, tá dược vừa đủ 1 viên. Chữa loét dạ dày với liều 2-4 viên mỗi lần, ngày uống 2-3 lần.
- Đơn thuốc hỗ trợ chữa loét dạ dày:
Chỉ có một vị cam thảo: Cao cam thảo 2 phần, nước cất một phần, hòa tan. Ngày uống 3 lần,
mỗi lần 1 thìa nhỏ. Không uống lâu quá 3 tuần lễ.
- Nhân trung hoàng hỗ trợ chữa sốt quá hóa điên cuống, trúng độc: Cam thảo tán nhỏ, cho vào đầy một ống tre đã cạo hết lớp tinh tre bên ngoài. Bịt kín hai đầu bằng nhựa thông. Đến mùa đông cắm cả ống tre đó vào một hố phận người, cho đến ngày lập xuân lấy ra rửa sạch, bổ ống tre lấy cam thảo phơi khô tán nhỏ.
Phải chăng đây là một cách người xưa chế Cam thảo dưới dạng muối amoniac Đông y coi vi này rất quý để hỗ trợ chữa cảm sốt quá hóa điên cuồng, trúng độc, bị mụn nhọt. Mỗi lần uống 1-2g.
- Cao cam thảo mền: hỗ trợ Chữa các chứng mụn nhọt, ngộ độc. Ngày uống 1-2 thìa con.
- Cao cam thảo đã loại glycyridin: Gần đây có người đã cho rằng glyxyridin không phải là hoạt chất nên đã chế cam thảo đã loại bỏ glyxyrindin di.
Nguồn: giáo sư tiến sĩ: Đỗ Tất Lợi
Xem thêm: Quế thanh hoá hỗ trợ chữa cả đau mắt ho hen
*Lưu ý: Hiệu quả của sản phẩm còn tùy thuộc vào cơ địa mỗi người*
Thông tin liên hệ:
CÔNG TY TNHH SX & TM DƯỢC LIỆU HÒA BÌNH
Địa chỉ: Thôn Om Làng – xã Cao Dương – huyện Lương Sơn – tỉnh Hòa Bình
Hotline: 0976 836 586
Email: congtyduoclieuhoabinh@gmail.com
Xem thêm: Viêm Amidan hốc mủ: Triệu chứng, Cách điều trị, Phòng ngừa
Hãy là người đầu tiên nhận xét “Cam thảo bắc tác dụng bổ tỳ vị nhuận phế” Hủy