Ung thư là gì? là một loại bệnh vô cùng nguy hiểm với con người, đén nay ung thư vẫn là một vấn đề thời sự vì chưa có thống kê cụ thể về thế nào là một bệnh ung thư, nguyên nhân cũng như cơ chế sinh bệnh. Tuy nhiên bạn cùng tham khảo những yếu tố cơ bản sau đây để biết thêm phần nào về căn bệnh ung thư này nhé.
1. Ung thư là gì?
Ung thư (cancer) là tên dùng chung để mô tả một nhóm các bệnh phản ảnh những sự thay đổi về sinh sản, tăng trưởng và chức năng của tế bào. Các tế bào bình thường trở nên bất thường (đột biến) và tăng sinh một cách không kiểm soát, xâm lấn các mô ở gần (xâm lấn cục bộ) hay ở xa (di căn) qua hệ thống bạch huyết hay mạch máu. Di căn là nguyên nhân gây tử vong chính của ung thư. Những thuật ngữ khác của ung thư là khối u ác tính hoặc tân sinh ác tính (malignant neoplasm).
2. Các loại ung thư là gì?
– Khối u
Một khối u xuất phát từ sự tăng sinh bất thường của các tế bào và hình thành nên một thể khối. Các khối u có thể là lành tính hay ác tính. Khối u lành tính không thể lan tràn hay xâm lấn các mô và cơ quan khác. Thường thì các khối u lành tính có thể được cắt bỏ mà không cần phải điều trị gì thêm.
Trái lại, khối u ác tính có thể lan tràn hay xâm lấn các mô và cơ quan khác thông qua hệ bạch huyết hay mạch máu theo một tiến trình được gọi là di căn. Khả năng lan tràn (di căn) của khối u khiến cho các khối u ác tính đe dọa đến tính mạng và khó điều trị.
Đa số các bệnh ung thư đều được gọi theo tên cơ quan hay loại tế bào nơi chúng khởi phát. Ví dụ như, ung thư bắt đầu ở phổi thì được gọi là ung thư phổi. Khi ung thư lan tràn từ địa điểm ban đầu đến một phần khác của cơ thể, thì khối u mới có cùng loại tế bào bất thường và cùng tên như khối u nguyên phát. Thí dụ như, ung thư tuyến tiền liệt lan đến xương là ung thư tuyến tiền liệt di căn (hay ung thư tuyến tiền liệt di căn xương), không phải là ung thư xương, bởi vì ung thư đã khởi phát ở tuyến tiền liệt.
– Ung thư có Khối u đặc
Khối u đặc là một khối bao gồm các tế bào phát triển bất thường như các ung thư của các vùng sau đây:
+ Tuyến tụy
+ Phổi
+ Dạ dày
+ Thực quản
+ Đầu cổ
+ Thận
+ Trực tràng
+ Đại tràng
Các bệnh nhân có các loại khối u này thường bị sụt cân trong suốt tiến trình mắc bệnh. Sụt cân thường là triệu chứng đầu tiên khiến họ đi khám bác sĩ.
Các bệnh ung thư vú, tuyến tiền liệt, buồng trứng và tử cung cũng đưa đến các khối u đặc. Những người mắc các loại ung thư này thường bị sụt cân trong các giai đoạn trễ của bệnh.
Bệnh ung thư có thể được nhóm lại trong các phân loại lớn hơn:
Carcinoma (ung thư biểu mô) – ung thư bắt nguồn trong da hoặc trong các mô lót hay phủ các cơ quan bên trong. Ví dụ như: ung thư da, ung thư cổ tử cung, ung thư hậu môn, ung thư thực quản, ung thư gan, ung thư thanh quản, ung thư thận, ung thư dạ dày, nhiều loại ung thư tinh hoàn và ung thư tuyến giáp.
Sarcoma (ung thư mô liên kết) – ung thư bắt nguồn trong xương, sụn, mỡ, cơ, mạch máu hay các mô liên kết khác.
Leukemia (bệnh bạch cầu, “bệnh máu trắng”) – ung thư bắt nguồn trong mô tạo máu như tủy xương và sản xuất ra một số lượng lớn các tế bào máu bất thường tiến vào dòng máu.
Lymphoma và myeloma (u lympho bào, u tủy) – ung thư bắt nguồn trong các tế bào của hệ miễn dịch.
Ung thư hệ thần kinh trung ương – ung thư bắt nguồn trong các mô não và tủy sống.
– Ung thư Máu
Các bệnh ung thư xảy ra trong máu không hình thành các khối u đặc. Thay vào đó, chúng tạo ra một sự gia tăng bất thường ở một số loại tế bào phát tán khắp các mạch máu, hạch bạch huyết hay tủy xương. Thí dụ như, trong bệnh bạch cầu (leukemia), cơ thể sản sinh một số lượng nhiều các tế bào bạch cầu một cách bất thường.
Đôi khi, thuật ngữ khối u lỏng cũng được sử dụng trong bệnh bạch cầu để ám chỉ số lượng gia tăng của các tế bào tuần hoàn bất thường. Các khối u hạch bạch huyết (lymphoma) được xem là các ung thư máu mặc dù chúng có thể hiện diện như một thể khối rõ ràng. Bệnh nhân với các khối u lỏng có thể phát triển sụt cân khi tình trạng bệnh và liệu trình điều trị tiến triển.
3. Sự khác nhau của các loại ung thư là gì?
Ung thư có thể phát sinh và phát triển ở tất cả các cơ quan và bộ phận trên cơ thể. Có những ung thư xuất phát từ các tổ chức nông của cơ thể nên dễ phát hiện sớm ngược lại có những ung thư xuất phát ở các tổ chức sâu nên rất khó phát hiện.
Cho đến nay người ta đã biết được trên 200 loại ung thư khác nhau trên cơ thể. Các loại ung thư này có những điểm giống nhau về cơ bản nhưng cũng có những đặc điểm khác nhau.
– Khác nhau về nguyên nhân
Về nguyên nhân gây ung thư, các tác giả chia ra làm 2 nhóm chính: tác nhân bên trong (chủ yếu do yếu tố di truyền và nội tiết) và tác nhân bên ngoài.
Qua các nghiên cứu dịch tể học của R. Doll và Petro 80% các nhân sinh ung thư là bắt nguồn từ môi trường sống (tác nhân bên ngoài) trong đó hai tác nhân chính là: 35% do chế độ ăn uống gây nhiều loại ung thư đường tiêu hóa và khoảng 30% ung thư do thuốc lá là nguyên nhân của 90% ung thư phổi và là thủ phạm chính gây ung thư đường hô hấp trên, ung thư vùng đầu cổ…
– Khác nhau về tiến triển
Ung thư thường xuất phát từ hai loại tổ chức chính của cơ thể:
Ung thư biểu mô (carcinoma) chiếm hơn 90% các ung thư trong cơ thể.
Ung thư tổ chức liên kết (sarcoma).
Thực tế, từ thời Hypocrates đã mô tả 2 loại ung thư này. Loại sùi ra ngoài nhiều và xâm lấn ra xung quanh như càng cua là ung thư thuộc loại carcinoma và một loại phát triển vào sâu là sarcoma.
Ung thư thường tiến triển khác nhau trong từng loại, trong mỗi cá thể khác nhau xu hướng tiến triển cũng rất khác nhau:
Có loại ung thư tiến triển nhanh: ung thư máu, hạch, ung thư hắc tố, các ung thư liên kết…
Có nhiều loại ung thư tiến triển chậm: ung thư da tế bào đáy, ung thư giáp trạng, ung thư cổ tử cung…
Con đường di căn chủ yếu cũng khác nhau:
Ung thư biểu mô thường di căn sớm tới các hạch khu vực.
Ung thư liên kết (xương, phần mềm) thường di căn sớm theo đường máu tới các tạng ở xa như gan, phổi, xương…
Thông thường ung thư càng ở giai đoạn muộn, càng hay có di căn ra hạch khu vực và di căn xa nhưng đôi khi có di căn rất sớm, thậm chí từ lúc chưa phát hiện thấy u nguyên phát.
Tốc độ phát triển của ung thư cũng tùy thuộc vào từng giai đoạn.
Giai đoạn sớm (insitu, giai đoạn I) ung thư tiến triển chậm.
Giai đoạn muộn (giai đoạn 3,4) ung thư tiến triển nhanh.
Ung thư ở người càng trẻ tiến triển càng nhanh.
– Khác nhau về phương pháp điều trị
Trong y văn có nói đến một tỷ lệ rất nhỏ (khoảng 1/10.000) ung thư tự khỏi. Người ta cho rằng các cá thể này có hệ thống miễn dịch tự điều chỉnh, tiêu diệt được các tế bào ung thư. Còn lại nếu ung thư không được điều trị thì chắc chắn bệnh nhân sẽ tử vong.
Càng điều trị ung thư ở giai đoạn sớm, bệnh nhân càng có nhiều cơ may khỏi ung thư.
Ở những giai đoạn muộn, việc điều trị nhằm kéo dài cuộc sống hoặc cải thiện chất lượng sống cho bệnh nhân ở giai đoạn cuối.
– Khác nhau về tiên lượng bệnh
Tiên lượng ung thư phụ thuộc rất nhiều yếu tố trên từng bệnh nhân. Những yếu tố chính là:
Giai đoạn ung thư: càng sớm tiên lượng càng tốt và ngược lại.
Loại ung thư: ung thư ở bề mặt có tiên lượng tốt hơn vì dễ phát hiện, dễ điều trị.
Tính chất ác tính của tế bào ung thư: độ ác tính càng cao tiên lượng càng xấu.
Thể trạng của bệnh nhân ung thư: ở người già ung thư thường tiến triển chậm hơn nhưng do sức chịu đựng kém nên khó thực hiện được phác đồ điều trị một cách triệt để nên càng già yếu tiên lượng càng xấu.
4. Nguyên nhân bệnh ung thư là gì?
Về nguyên nhân, có nhiều yếu tố nguy cơ như: nhiễm độc hoá chất, hút thuốc hoặc tiếp xúc nhiều với ánh nắng mặt trời… là nguyên nhân gây tổn thương AND, tích lũy đột biến dẫn đến ung thư. Ngoài ra, tiền sử gia đình có nhiều người mắc bệnh ung thư cũng làm tăng nguy cơ mắc căn bệnh hiểm nghèo này, bởi bản thân con người khi sinh ra đã thừa hưởng một số đột biến DNA.
5. Dấu hiệu bệnh ung thư là gì?
– Sụt cân bất thường, mệt mỏi vô cớ
Bỗng dưng bạn sụt cân một cách đáng kể, như giảm hơn 10% trọng lượng cơ thể của mình trong khoảng 3 tháng – đó có thể là dấu hiệu của bệnh ung thư. Giảm cân xảy ra hầu hết với các loại ung thư như ung thư tuyến tụy, dạ dày, thực quản, ung thư đại tràng hoặc ung thư phổi.
Mệt mỏi cũng là biểu hiện tiềm ẩn của bệnh ung thư nhưng thường bị bỏ qua.
Tuy nhiên, sự mệt mỏi do ung thư rất vô cớ và thường khác với sự mệt mỏi do làm việc vất vả. Mệt mỏi do ung thư rất bải oải và người bệnh không cảm thấy đỡ dù đã nghỉ ngơi. Đây có thể là dấu hiệu của một vài loại ung thư bao gồm: ung thư máu, ung thư ruột kết, ung thư dạ dày…
– Ho kéo dài
Các đợt ho kéo dài và không thuyên giảm gây cho người bệnh nhiều phiền toái. Loại trừ ho do cảm lạnh, cúm và các bệnh dị ứng, đôi khi ho do một tác dụng phụ của thuốc. Ho kéo dài được định nghĩa là kéo dài hơn ba hoặc bốn tuần – hoặc có thay đổi về ho thì không nên bỏ qua. Các kiểu ho này có thể là triệu chứng của bệnh ung thư hoặc chúng có thể chỉ ra một số vấn đề khác như viêm phế quản mạn tính hoặc trào ngược acid. Ho kéo dài đồng thời có những biểu hiện kèm theo như đau ngực, ho ra máu… có thể là dấu hiệu ung thư phổi.
– Khó tiêu hoặc khó nuốt thức ăn
Một số người có thể bị khó nuốt, nhưng sau đó tự xem xét thấy không đau hay viêm họng gì nên đã bỏ qua nó. Theo thời gian, họ thay đổi chế độ ăn uống nhiều chất lỏng hơn nhưng vẫn khó nuốt. Đây có thể là dấu hiệu của ung thư đường tiêu hóa, mà dễ gặp nhất là ung thư thực quản. Triệu chứng khó tiêu diễn ra một thời gian dài không khắc phục được có thể là dấu hiệu ung thư thực quản, vòm họng hoặc dạ dày.
– Cúm, sốt
Nhiều trường hợp bị sốt không rõ nguyên nhân, có thể do ung thư. Điều này có thể lý giải là do ung thư có thể ảnh hưởng đến hệ miễn dịch, làm cho cơ thể không có sức đề kháng với các viêm nhiễm gây cúm, sốt. Hầu hết các bệnh ung thư sẽ gây sốt tại một số thời điểm. Thường sốt xảy ra sau khi ung thư đã lan từ vị trí ban đầu của nó và xâm chiếm một phần khác của cơ thể. Sốt cũng có thể được gây ra bởi bệnh ung thư máu như u lympho hoặc bệnh bạch cầu, ung thư hạch.
– Những thay đổi ở da
Bạn nên cảnh giác không những thay đổi duy nhất ở nốt ruồi – một dấu hiệu của ung thư da tiềm ẩn, mà còn các thay đổi khác trên da. Những sự thay đổi về cấu trúc của da, mụn cóc, nốt ruồi hoặc đốm sắc tố đều có thể là những dấu hiệu của ung thư da. Khối u ác tính là một dạng phổ biến của ung thư da và có biểu hiện giống như những đốm trên da, thường có màu sắc, kích thước, hình dáng không bình thường.
– Đầy hơi
Đầy hơi là hiện tượng xảy ra khi bị khó tiêu, giữ nước… Tuy nhiên, nếu bạn bắt đầu bị đầy hơi thường xuyên, đầy hơi kèm theo đau bụng hoặc đau vùng xương chậu mà không liên quan đến chu kỳ kinh nguyệt thì bạn nên đi khám, đó có thể là dấu hiệu của ung thư buồng trứng. Đây là loại ung thư rất khó phát hiện ở giai đoạn sớm.
– Đau đớn
Khi có tuổi, người ta thường phàn nàn mệt mỏi và đau đớn tăng. Nhưng đau mơ hồ, có thể là một triệu chứng sớm của một số bệnh ung thư. Một cơn đau đầu không làm cách nào dứt được dù đã uống thuốc giảm đau có thể là dấu hiệu của khối u ác tính ở não. Các cơn đau ở lưng là dấu hiệu của ung thư ruột kết hoặc ung thư buồng trứng. Ung thư xương, ung thư dương vật cũng gây ra các đau đớn.
– Chảy máu bất thường
Nếu bạn bắt đầu ho ra máu, khạc nhổ ra máu, có máu trong phân hoặc trong nước tiểu, bạn nên đi khám bệnh ngay. Ho ra máu là dấu hiệu của ung thư phổi. Thấy máu trong phân là dấu hiệu của ung thư ruột kết. Đi tiểu ra máu, coi chừng ung thư thận hoặc ung thư bàng quang. Chảy máu núm vú báo tình trạng ung thư vú.
– Sưng hạch bạch huyết
Nếu bạn nhận thấy một khối u hoặc sưng ở các hạch bạch huyết dưới nách hay ở cổ hoặc ở bất cứ nơi nào khác thì cần phải lưu ý vì đó có thể liên quan đến bệnh ung thư máu và bạch huyết.
– Viêm loét miệng
Trường hợp hút thuốc hoặc nhai trầu, hay thường uống chất có cồn thì cần phải đặc biệt cảnh giác với bất kỳ mảng trắng nào bên trong miệng hoặc đốm trắng trên lưỡi của bạn. Những thay đổi này có thể cho thấy bạch sản, một khu vực tiền ung thư có thể xảy ra với các kích thích liên tục. Tình trạng này có thể tiến triển thành ung thư miệng.
– Sờ thấy u, cục
Rất nhiều loại ung thư cảm nhận được qua da. Các loại ung thư này thường là ung thư vú, ung thư dương vật, ung thư hạch và ung thư tế bào mềm trong cơ thể. Một vài dạng khác của ung thư vú không xuất hiện u, cục nhưng da cứ mẩn đỏ, dầy lên.
6. Cách điều trị ung thư là gì?
Các liệu pháp điều trị ung thư có thể được sử dụng một mình hoặc kết hợp với nhau. Loại điều trị tùy thuộc vào vị trí ung thư, mức độ lan, tuổi và tổng trạng sức khỏe của bệnh nhân, các chọn lựa điều trị sẵn có và các mục tiêu cho việc điều trị. Các loại điều trị phổ biến nhất là phẫu thuật, xạ trị và hóa trị.
– Phẫu thuật
Nhiều tiến bộ đã được tạo ra trong điều trị ung thư, nhưng việc loại bỏ các khối u ác tính qua phẫu thuật vẫn là liệu pháp “cứu chữa” chủ yếu đối với đa phần các khối u đặc.
– Xạ trị
Trong xạ trị, một chùm tia phóng xạ được nhắm vào vị trí của khối u. Vị trí của khối u bị bắn phá bằng phóng xạ trong thời gian vài phút trong một loạt các đợt điều trị, thường kéo dài liên tục trong vài tuần. Mục tiêu là phá hỏng DNA của các tế bào thuộc khối u, hủy diệt chúng khi chúng đang cố gắng sản sinh, trong khi gây tổn hại tối thiểu cho mô bình thường ở chung quanh.
– Hóa trị
Hóa trị liên quan đến việc sử dụng các thuốc chống ung thư, và giống như xạ trị, sẽ hủy diệt các tế bào ung thư bằng cách làm tổn hại DNA của chúng.
Bệnh nhân tiếp nhận các thuốc hóa trị qua đường uống hoặc truyền qua tĩnh mạch. Tùy loại, vị trí và giai đoạn của bệnh ung thư, bệnh nhân có thể phải điều trị hàng tuần hay hàng tháng. Hóa trị là một điều trị toàn thân tác động đến toàn bộ các tế bào đang phát triển nhanh. Điều này bao gồm các tế bào của khối u và các tế bào bình thường như các tế bào ở nang tóc và ở đường tiêu hóa. Điều này gây ra các tác dụng phụ, như bị rụng tóc và tiêu chảy thường gặp trong hóa trị.
– Điều trị Kết hợp
Đôi khi các biện pháp phẫu thuật, xạ trị và hóa trị có thể được kết hợp để điều trị tốt hơn một ung thư cụ thể. Chẳng hạn như, xạ trị có thể được sử dụng trước để làm thu nhỏ khối u, khiến các bác sĩ dễ dàng hơn trong việc phẫu thuật cắt bỏ nó. Hay, hóa trị có thể được sử dụng cùng với xạ trị để tiêu diệt các tế bào ung thư có thể đã vượt ra ngoài khối u.
– Các phác đồ điều trị
Việc sử dụng các điều trị chống ung thư, một mình hay kết hợp, có thể thực hiện theo các phác đồ cụ thể. Các thầy thuốc có thể lựa chọn một phác đồ dựa vào kinh nghiệm của mình với các liệu pháp, loại, vị trí và giai đoạn tiến triển của ung thư, và điều kiện cụ thể của bệnh nhân.
Bác Sỹ Nguyễn Cảnh Chương – PGĐ khoa chuẩn đoán trước sinh, BV Phụ sản Hà Nội. Chuyên Gia tư vấn của nhãn hàng Thảo Dược Củ Gai An Thái Phương