6 nguy cơ tiềm ẩn mắc ung thư vú đến từ lối sống

Có những nguy cơ tiềm ẩn mắc ung thư vú mà đôi khi bạn không biết. Đó là những nguyên nhân gì? Cùng tìm hiểu ngay nhé!

1/Có con

Những phụ nữ chưa có con hoặc những người đã có con đầu tiên sau 30 tuổi có nguy cơ ung thư vú cao hơn bình thường. Mang thai lúc trẻ làm giảm nguy cơ ung thư vú. Tuy nhiên, điều này còn tùy thuộc vào nhiều loại ung thư vú khác nhau. Có loại, ngược lại, lấy mang thai làm nguy cơ phát bệnh.

2/Kiểm soát sinh nở

Uống thuốc tránh thai: Các nghiên cứu đã tìm thấy rằng phụ nữ sử dụng thuốc ngừa thai có nguy cơ mắc bệnh ung thư vú cao hơn người chưa bao giờ dùng. Nguy cơ này sẽ giảm dần theo thời gian sau khi ngừng uống thuốc. Những người phụ nữ ngừng sử dụng thuốc ngừa thai hơn 10 năm sẽ không có nguy cao mắc ung thư vú. Vậy nên, hãy thảo luận về các yếu tố nguy cơ khác của bệnh ung thư vú với nhân viên chăm sóc sức khỏe nếu có ý định dùng thuốc tránh thai.

Depot-medroxyprogesterone acetate (DMPA, Depo-Provera) là một hình thức tiêm progesterone 3 tháng một lần để kiểm soát sinh đẻ. Một vài nghiên cứu đã xem xét ảnh hưởng của DMPA và nguy cơ ung thư vú. Hiện nay phụ nữ sử dụng DMPA gia tăng nguy cơ mắc bệnh, nhưng nguy cơ này không thể tăng nếu đã ngưng uống thuốc sau hơn 5 năm.

3/Liệu pháp hormone sau thời kỳ mãn kinh

Liệu pháp hormone sử dụng estrogen (thường kết hợp với progesterone) đã được sử dụng trong nhiều năm để giúp giảm các triệu chứng mãn kinh và giúp ngăn ngừa loãng xương. Chúng còn được gọi là liệu pháp hormone sau mãn kinh (PHT), liệu pháp thay thế hormone (HRT) và liệu pháp hormone mãn kinh (MHT). Các nghiên cứu trước đó cho thấy nó có thể có lợi ích sức khỏe khác nữa, nhưng những lợi ích đã không được tìm thấy trong nhiều nghiên cứu gần đây.

Có 2 loại liệu pháp hormone chính. Đối với phụ nữ vẫn có tử cung (dạ con), các bác sĩ thường kê toa estrogen và progesterone (được gọi là liệu pháp hormone kết hợp hoặc HT). Progesterone rất cần thiết vì một mình estrogen có thể làm tăng nguy cơ ung thư tử cung. Đối với những phụ nữ đã cắt bỏ tử cung, bác sĩ sẽ kê toa chỉ dùng estrogen. Điều này thường được gọi là liệu pháp thay thế estrogen (ERT) hoặc điều trị justestrogen (ET).

Liệu pháp hormone kết hợp (HT): Các liệu pháp kết hợp hormone sau mãn kinh làm tăng nguy cơ mắc bệnh ung thư vú. Nó cũng có thể làm tăng nguy cơ tử vong do ung thư vú. Chỉ cần sử dụng 2 năm là nguy cơ đã tăng lên đến mức báo động. Những nghiên cứu lớn đã tìm thấy rằng nguy cơ ung thư vú gia tăng khi dùng HT. HT cũng làm tăng khả năng ung thư có thể được tìm thấy tại một giai đoạn cao hơn.

Nguy cơ từ HT chỉ đúng ở những người dùng hiện tại và gần đây. Nguy cơ ung thư vú của người phụ nữ sẽ quay trở về bình thường trong vòng 5 năm sau khi ngừng điều trị.

Bioidentical đôi khi được dùng để mô tả phiên bản của estrogen và progesterone có cấu trúc hóa học tương tự như trong cơ thể trong người. Việc sử dụng các kích thích tố đã được bày bán công khai trên thị trường là một cách an toàn để điều trị các triệu chứng của thời kỳ mãn kinh. Điều quan trọng là nhận ra rằng mặc dù có rất ít nghiên cứu so sánh “bioidentical” hoặc kích thích tố “tự nhiên” với phiên bản tổng hợp của kích thích tố, không có bằng chứng rằng chúng an toàn hoặc hiệu quả hơn. Việc sử dụng các kích thích tố bioidentical nên được giả định là có nguy cơ sức khỏe giống như bất kỳ loại hình khác của liệu pháp hormone.

Liệu pháp estrogen (ET): Việc chỉ sử dụng estrogen sau mãn kinh không làm tăng đáng kể nguy cơ phát triển ung thư vú. Nhưng khi sử dụng lâu (hơn 10 năm), ET sẽ làm tăng nguy cơ ung thư buồng trứng và vú.

Tại thời điểm này, có vẻ như việc sử dụng các liệu pháp hormone sau mãn kinh (hoặc HT hoặc ET) hợp lý hơn cả. Cùng với sự gia tăng nguy cơ ung thư vú, HT cũng sẽ làm gia tăng nguy cơ bệnh tim, huyết khối và đột quỵ. Nó làm giảm nguy cơ ung thư đại tràng và bệnh loãng xương, nhưng điều này phải được cân nhắc vì các tác hại có thể xảy ra, đặc biệt là kể từ khi có những cách khác hiệu quả để ngăn ngừa và điều trị loãng xương. Mặc dù ET dường như không làm tăng nguy cơ ung thư vú, nó làm tăng nguy cơ đột quỵ.

Quyết định sử dụng HT nên được thực hiện sau khi bác sĩ và người bệnh đã cân nhắc các rủi ro và lợi ích (bao gồm cả mức độ nghiêm trọng của các triệu chứng mãn kinh), và xem xét các yếu tố nguy cơ khác đối với bệnh tim, ung thư vú và loãng xương. Nếu cả hai đồng ý, nên bắt đầu bằng liều thấp nhất trong thời gian ngắn nhất có thể.

4/Cho con bú

Điều này có thể làm giảm nguy cơ ung thư vú thấp hơn một chút, đặc biệt là nếu việc cho bú diễn ra liên tục từ 1 năm rưỡi đến 2 năm. Nhưng điều này rất khó để tiến hành nghiên cứu, đặc biệt là ở các nước như Hoa Kỳ, nơi con bú lâu như thế này rất hiếm.

Con bú làm giảm tổng thời gian hành kinh (chẳng hạn như bắt đầu chu kỳ kinh nguyệt ở tuổi lớn hoặc trải qua thời kỳ mãn kinh sớm).

5/Uống rượu

Uống rượu rõ ràng làm tăng nguy cơ phát triển ung thư vú. Nguy cơ này tỷ lệ thuận với số lượng rượu tiêu thụ. So với người không uống rượu, phụ nữ tiêu thụ thức uống có cồn mỗi ngày sẽ làm tăng rủi ro mắc bệnh. Những người uống 2–5 ly mỗi ngày có nguy cơ cao gấp 1 ½ lần phụ nữ không uống rượu. Tiêu thụ rượu quá mức cũng làm tăng nguy cơ phát triển một số loại ung thư khác. Hiệp hội Ung thư Mỹ khuyến cáo phụ nữ không nên nhiều hơn 1 ly một ngày.

6/Thừa cân hoặc béo phì

Thừa cân hoặc béo phì sau mãn kinh làm tăng nguy cơ ung thư vú. Trước khi mãn kinh buồng trứng sản xuất hầu hết các estrogen của bạn, và mô mỡ sản xuất ra một lượng nhỏ estrogen. Sau khi mãn kinh (khi buồng trứng ngừng sản xuất estrogen), hầu hết các estrogen của phụ nữ đến từ các mô mỡ. Có quá nhiều mô mỡ sau khi mãn kinh có thể làm tăng nguy cơ bị ung thư vú do tăng mức estrogen. Ngoài ra, những phụ nữ thừa cân có xu hướng có mức độ insulin trong máu cao hơn. Nồng độ insulin cao cũng có liên quan đến một số bệnh ung thư, bao gồm ung thư vú.

Tuy nhiên, mối liên kết giữa cân nặng và nguy cơ ung thư vú vẫn còn phức tạp. Ví dụ, nguy cơ này xuất hiện ở người già nhưng có thể không tăng cao ở những người bị thừa cân từ nhỏ. Ngoài ra, chất béo thừa trong khu vực eo có thể ảnh hưởng đến nguy cơ phát triển một lượng chất béo khác ở hông và đùi. Các nhà nghiên cứu tin rằng các tế bào mỡ ở các bộ phận khác nhau của cơ thể có sự khác biệt rất nhỏ.

Hiệp hội Ung thư Mỹ khuyến cáo bạn duy trì một trọng lượng khỏe mạnh trong suốt cuộc đời bằng cách cân bằng lượng thức ăn của bạn với hoạt động thể chất và tránh tăng cân quá mức.

Hoạt động thể chất

Tăng hoạt động thể chất làm giảm nguy cơ ung thư vú. Trong một nghiên cứu từ Sáng kiến sức khỏe phụ nữ, ít nhất là 1 ¼ đến 2 ½ giờ mỗi tuần đi bộ nhanh sẽ giảm nguy cơ của một người phụ nữ đến 18%. Đi bộ 10 giờ một tuần làm giảm nguy cơ nhiều hơn một chút.

Để giảm nguy cơ ung thư vú, Hiệp hội Ung thư Mỹ khuyến cáo rằng người lớn tập ít nhất 150 phút với cường độ vừa phải hoặc 75 phút cường độ mạnh mỗi tuần (hoặc kết hợp cả hai).

Có những nguy cơ tiềm ẩn mắc ung thư vú mà đôi khi bạn không biết. Đó là những nguyên nhân gì? Cùng tìm hiểu ngay nhé!

1/Có con

Những phụ nữ chưa có con hoặc những người đã có con đầu tiên sau 30 tuổi có nguy cơ ung thư vú cao hơn bình thường. Mang thai lúc trẻ làm giảm nguy cơ ung thư vú. Tuy nhiên, điều này còn tùy thuộc vào nhiều loại ung thư vú khác nhau. Có loại, ngược lại, lấy mang thai làm nguy cơ phát bệnh.

2/Kiểm soát sinh nở

Uống thuốc tránh thai: Các nghiên cứu đã tìm thấy rằng phụ nữ sử dụng thuốc ngừa thai có nguy cơ mắc bệnh ung thư vú cao hơn người chưa bao giờ dùng. Nguy cơ này sẽ giảm dần theo thời gian sau khi ngừng uống thuốc. Những người phụ nữ ngừng sử dụng thuốc ngừa thai hơn 10 năm sẽ không có nguy cao mắc ung thư vú. Vậy nên, hãy thảo luận về các yếu tố nguy cơ khác của bệnh ung thư vú với nhân viên chăm sóc sức khỏe nếu có ý định dùng thuốc tránh thai.

Depot-medroxyprogesterone acetate (DMPA, Depo-Provera) là một hình thức tiêm progesterone 3 tháng một lần để kiểm soát sinh đẻ. Một vài nghiên cứu đã xem xét ảnh hưởng của DMPA và nguy cơ ung thư vú. Hiện nay phụ nữ sử dụng DMPA gia tăng nguy cơ mắc bệnh, nhưng nguy cơ này không thể tăng nếu đã ngưng uống thuốc sau hơn 5 năm.

3/Liệu pháp hormone sau thời kỳ mãn kinh

Liệu pháp hormone sử dụng estrogen (thường kết hợp với progesterone) đã được sử dụng trong nhiều năm để giúp giảm các triệu chứng mãn kinh và giúp ngăn ngừa loãng xương. Chúng còn được gọi là liệu pháp hormone sau mãn kinh (PHT), liệu pháp thay thế hormone (HRT) và liệu pháp hormone mãn kinh (MHT). Các nghiên cứu trước đó cho thấy nó có thể có lợi ích sức khỏe khác nữa, nhưng những lợi ích đã không được tìm thấy trong nhiều nghiên cứu gần đây.

Có 2 loại liệu pháp hormone chính. Đối với phụ nữ vẫn có tử cung (dạ con), các bác sĩ thường kê toa estrogen và progesterone (được gọi là liệu pháp hormone kết hợp hoặc HT). Progesterone rất cần thiết vì một mình estrogen có thể làm tăng nguy cơ ung thư tử cung. Đối với những phụ nữ đã cắt bỏ tử cung, bác sĩ sẽ kê toa chỉ dùng estrogen. Điều này thường được gọi là liệu pháp thay thế estrogen (ERT) hoặc điều trị justestrogen (ET).

Liệu pháp hormone kết hợp (HT): Các liệu pháp kết hợp hormone sau mãn kinh làm tăng nguy cơ mắc bệnh ung thư vú. Nó cũng có thể làm tăng nguy cơ tử vong do ung thư vú. Chỉ cần sử dụng 2 năm là nguy cơ đã tăng lên đến mức báo động. Những nghiên cứu lớn đã tìm thấy rằng nguy cơ ung thư vú gia tăng khi dùng HT. HT cũng làm tăng khả năng ung thư có thể được tìm thấy tại một giai đoạn cao hơn.

Nguy cơ từ HT chỉ đúng ở những người dùng hiện tại và gần đây. Nguy cơ ung thư vú của người phụ nữ sẽ quay trở về bình thường trong vòng 5 năm sau khi ngừng điều trị.

Bioidentical đôi khi được dùng để mô tả phiên bản của estrogen và progesterone có cấu trúc hóa học tương tự như trong cơ thể trong người. Việc sử dụng các kích thích tố đã được bày bán công khai trên thị trường là một cách an toàn để điều trị các triệu chứng của thời kỳ mãn kinh. Điều quan trọng là nhận ra rằng mặc dù có rất ít nghiên cứu so sánh “bioidentical” hoặc kích thích tố “tự nhiên” với phiên bản tổng hợp của kích thích tố, không có bằng chứng rằng chúng an toàn hoặc hiệu quả hơn. Việc sử dụng các kích thích tố bioidentical nên được giả định là có nguy cơ sức khỏe giống như bất kỳ loại hình khác của liệu pháp hormone.

Liệu pháp estrogen (ET): Việc chỉ sử dụng estrogen sau mãn kinh không làm tăng đáng kể nguy cơ phát triển ung thư vú. Nhưng khi sử dụng lâu (hơn 10 năm), ET sẽ làm tăng nguy cơ ung thư buồng trứng và vú.

Tại thời điểm này, có vẻ như việc sử dụng các liệu pháp hormone sau mãn kinh (hoặc HT hoặc ET) hợp lý hơn cả. Cùng với sự gia tăng nguy cơ ung thư vú, HT cũng sẽ làm gia tăng nguy cơ bệnh tim, huyết khối và đột quỵ. Nó làm giảm nguy cơ ung thư đại tràng và bệnh loãng xương, nhưng điều này phải được cân nhắc vì các tác hại có thể xảy ra, đặc biệt là kể từ khi có những cách khác hiệu quả để ngăn ngừa và điều trị loãng xương. Mặc dù ET dường như không làm tăng nguy cơ ung thư vú, nó làm tăng nguy cơ đột quỵ.

Quyết định sử dụng HT nên được thực hiện sau khi bác sĩ và người bệnh đã cân nhắc các rủi ro và lợi ích (bao gồm cả mức độ nghiêm trọng của các triệu chứng mãn kinh), và xem xét các yếu tố nguy cơ khác đối với bệnh tim, ung thư vú và loãng xương. Nếu cả hai đồng ý, nên bắt đầu bằng liều thấp nhất trong thời gian ngắn nhất có thể.

4/Cho con bú

Điều này có thể làm giảm nguy cơ ung thư vú thấp hơn một chút, đặc biệt là nếu việc cho bú diễn ra liên tục từ 1 năm rưỡi đến 2 năm. Nhưng điều này rất khó để tiến hành nghiên cứu, đặc biệt là ở các nước như Hoa Kỳ, nơi con bú lâu như thế này rất hiếm.

Con bú làm giảm tổng thời gian hành kinh (chẳng hạn như bắt đầu chu kỳ kinh nguyệt ở tuổi lớn hoặc trải qua thời kỳ mãn kinh sớm).

5/Uống rượu

Uống rượu rõ ràng làm tăng nguy cơ phát triển ung thư vú. Nguy cơ này tỷ lệ thuận với số lượng rượu tiêu thụ. So với người không uống rượu, phụ nữ tiêu thụ thức uống có cồn mỗi ngày sẽ làm tăng rủi ro mắc bệnh. Những người uống 2–5 ly mỗi ngày có nguy cơ cao gấp 1 ½ lần phụ nữ không uống rượu. Tiêu thụ rượu quá mức cũng làm tăng nguy cơ phát triển một số loại ung thư khác. Hiệp hội Ung thư Mỹ khuyến cáo phụ nữ không nên nhiều hơn 1 ly một ngày.

6/Thừa cân hoặc béo phì

Thừa cân hoặc béo phì sau mãn kinh làm tăng nguy cơ ung thư vú. Trước khi mãn kinh buồng trứng sản xuất hầu hết các estrogen của bạn, và mô mỡ sản xuất ra một lượng nhỏ estrogen. Sau khi mãn kinh (khi buồng trứng ngừng sản xuất estrogen), hầu hết các estrogen của phụ nữ đến từ các mô mỡ. Có quá nhiều mô mỡ sau khi mãn kinh có thể làm tăng nguy cơ bị ung thư vú do tăng mức estrogen. Ngoài ra, những phụ nữ thừa cân có xu hướng có mức độ insulin trong máu cao hơn. Nồng độ insulin cao cũng có liên quan đến một số bệnh ung thư, bao gồm ung thư vú.

Tuy nhiên, mối liên kết giữa cân nặng và nguy cơ ung thư vú vẫn còn phức tạp. Ví dụ, nguy cơ này xuất hiện ở người già nhưng có thể không tăng cao ở những người bị thừa cân từ nhỏ. Ngoài ra, chất béo thừa trong khu vực eo có thể ảnh hưởng đến nguy cơ phát triển một lượng chất béo khác ở hông và đùi. Các nhà nghiên cứu tin rằng các tế bào mỡ ở các bộ phận khác nhau của cơ thể có sự khác biệt rất nhỏ.

Hiệp hội Ung thư Mỹ khuyến cáo bạn duy trì một trọng lượng khỏe mạnh trong suốt cuộc đời bằng cách cân bằng lượng thức ăn của bạn với hoạt động thể chất và tránh tăng cân quá mức.

Hoạt động thể chất

Tăng hoạt động thể chất làm giảm nguy cơ ung thư vú. Trong một nghiên cứu từ Sáng kiến sức khỏe phụ nữ, ít nhất là 1 ¼ đến 2 ½ giờ mỗi tuần đi bộ nhanh sẽ giảm nguy cơ của một người phụ nữ đến 18%. Đi bộ 10 giờ một tuần làm giảm nguy cơ nhiều hơn một chút.

Để giảm nguy cơ ung thư vú, Hiệp hội Ung thư Mỹ khuyến cáo rằng người lớn tập ít nhất 150 phút với cường độ vừa phải hoặc 75 phút cường độ mạnh mỗi tuần (hoặc kết hợp cả hai).

Xem thêm: Viêm tụy

Rate this post

Tin Liên quan

error: Content is protected !!